Căn nhà 24/B ở phường An Hòa, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang trước đây là của ông Lý Văn M. Ông M bán cho vợ chồng bà Nguyễn Thị L vào năm 1987. Bà L sử dụng đến năm 2005 thì bán lại cho vợ chồng ông Trần Văn T. Đến ngày 28/11/2007, vợ chồng ông T bán cho bà Lại Thị X sử dụng đến nay. Tất cả những lần mua bán, các bên đều làm giấy viết tay với nhau do đất nằm trong quy hoạch mở rộng đường, chỉnh trang đô thị nên chưa ai được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ. Nay quy hoạch được thay đổi, cho phép hộ gia đình đang sử dụng được làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận QSDĐ và quyền sở hữu nhà ở. Vậy bà X là người hiện đang sử dụng được đứng tên trên Giấy chứng nhận, hay chủ cũ đứng tên trên Giấy chứng nhận sau đó mới làm hợp đồng công chứng sang tên cho bà X; trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận được thực hiện như thế nào?
Ths Bùi Đức Độ - Giám đốc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Kiên Giang - cho biết: Căn cứ quy định tại khoản 54 Điều 2 của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 82 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai thì các trường hợp đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho QSDĐ trước ngày 01/01/2008 mà chưa được cấp Giấy chứng nhận và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 82 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì người đang sử dụng đất thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu theo quy định của Luật đất đai mà không phải làm thủ tục chuyển QSDĐ; cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được yêu cầu người nhận chuyển QSDĐ nộp hợp đồng, văn bản chuyển QSDĐ theo quy định của pháp luật.
Khoản 2 Điều 82 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định các trường hợp người đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho QSDĐ trước ngày 01/7/2014 mà bên nhận chuyển QSDĐ chỉ có Giấy chứng nhận của bên chuyển QSDĐ hoặc hợp đồng, giấy tờ về chuyển QSDĐ theo quy định thì thực hiện theo quy định như sau…
Như vậy, căn cứ vào quy định trên thì thuộc trường hợp xin cấp Giấy chứng nhận cho đất không có giấy tờ về QSDĐ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP đã đáp ứng điều kiện về chuyển nhượng, tặng cho bằng giấy viết tay và trước ngày ngày 01/01/2008 cho nên người đang sử dụng đất (bà Lại Thị X) sẽ là người thực hiện thủ tục đăng ký, cấp Giấy chứng nhận lần đầu theo Điều 70 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP mà không phải nộp hợp đồng, văn bản chuyển QSDĐ theo quy định của pháp luật (tức là hợp đồng chuyển QSDĐ được công chứng, chứng thực).
Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận cần có các giấy tờ như: (1) Đơn đăng ký, cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. (2) Các loại giấy tờ mua bán nhà viết tay. (3) Chứng từ thực hiện nghĩa vụ tài chính; giấy tờ liên quan đến việc miễn, giảm nghĩa vụ tài chính về đất đai, tài sản gắn liền với đất (nếu có). Người đề nghị cấp Giấy chứng nhận có thể nộp hồ sơ tại UBND cấp xã hoặc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai. UBND cấp xã có trách nhiệm xác nhận vào hồ sơ về hiện trạng sử dụng đất; xác nhận nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất; niêm yết công khai kết quả kiểm tra hồ sơ trong thời hạn 15 ngày. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm kiểm tra bản trích đo địa chính hoặc thực hiện việc trích lục, trích đo thửa đất; gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định và thông báo thu nghĩa vụ tài chính; chuẩn bị hồ sơ để cơ quan tài nguyên và môi trường trình ký cấp Giấy chứng nhận.